NỘI

Khoa Ngoại tổng hợp bệnh viện Đa khoa thành phố Ngã Bảy phẫu thuật nội soi thành công cho bệnh nhân U nhầy ruột thừa
[ Cập nhật vào ngày (16/08/2024) ]
Hình ảnh phẫu thuật nội soi thành công cho bệnh nhân U nhầy ruột thừa
Hình ảnh phẫu thuật nội soi thành công cho bệnh nhân U nhầy ruột thừa

Bệnh nhân Lý Văn H. Sinh năm 1985. Nam. Mã hồ sơ 2201140189. Địa chỉ: Khu vực 6, Phường Lái Hiếu, TP Ngã Bảy, Hậu Giang. Vào viện vì đau bụng. Bệnh biểu hiện trước vào viện 02 ngày, đau bụng hố chậu phải âm ỉ, tăng dần, không thành cơn, không lan xuyên, không sốt, không nôn, không rối loạn đại – tiểu tiện, chưa điều trị gì, vào viện lúc 9g50p ngày 04 tháng 7 năm 2024 khám và điều trị.


Khám lúc vào: bệnh nhân thể trạng trung bình, không phù, không sốt. Bụng mềm, điểm Mc-Burney ấn đau. Phổi 2 bên thông khí đều. Các cơ quan khác sơ bộ chưa phát hiện bất thường.

Xét nghiệm lúc vào: Siêu âm ổ bụng: vùng hố chậu phải có cấu trúc ECHO trống, bờ đều, giới hạn rõ, kích thước 85x30 mm thành mỏng, dịch chất bên trong không thuần trạng, xếp thành lớp, nghĩ nhiều đến U nhày ruột thừa; Các xét nghiệm huyết học, sinh hóa trong giới hạn cho phép phẫu thuật.

Chẩn đoán trước mổ: U nhầy ruột thừa

Phẫu thuật lúc 13g30p  ngày 04/07/2024. Vào bụng qua 03 Trocar (10 mm ở  rốn và hạ vị, 5 mm ở hông phải. Quan sát thấy ruột thừa ở hố chậu phải, đường kính khoảng 3cm dài khoảng 10cm, mạc treo ruột thừa mỏng, gốc ruột thừa to. Tiến hành phẫu tích cắt mạc treo, bộc lộ toàn bộ khối U nhày ruột thừa, cắt ruột thừa làm giải phẫu bệnh lý. Lau rửa sạch ổ bụng, cầm máu kỹ. Đặt 01 dẫn lưu Douglas. Kết quả giải phẫu bệnh lý: U nhày ruột thừa phù hợp với chẩn đoán lâm sàng.

Diễn tiến hậu phẫu: bệnh nhân không sốt, hết đau bụng, trung tiện được ngày thứ 02; dẫn lưu ra ít dịch rửa và được rút ngày thứ 03. Sức khỏe bệnh nhân hoàn toàn ổn định, xuất viện ngày thứ 7.

 

U nhày của ruột thừa là một thuật ngữ đề cập đến sự giãn ra của lòng ruột thừa do kết quả của sự tích tụ chất nhày (mucin) với số lượng nhiều của ruột thừa. Sự hình thành u nhày ruột thừa thường được gây ra bởi sự tăng sinh biểu mô, lành tính hoặc ác tính. Ít thường xuyên hơn, là các nguyên nhân do viêm ruột thừa hoặc tắc nghẽn bởi sỏi phân.

Tỷ lệ mắc bệnh là 0,2% đến 0,7% của tất cả các bệnh phẩm mổ ruột thừa. Có 4 type giải phẫu bệnh gồm: U nhầy đơn thuần (retention cyst), U Tăng sản nhầy (Mucosal hyperplasia), U nang tuyến nhầy (Mucinous cystadenoma), Ung thư nang tuyến nhầy (Mucinous cystadenocarcinoma).

Bệnh này không có triệu chứng lâm sàng điển hình nên dễ nhầm với viêm ruột thừa cấp. Đôi khi bệnh nhân bị đau ở hố chậu (phải), có thể sờ được khối u vùng hố chậu phải nếu U kích thước lớn, một số ít trường hợp có triệu chứng kích thích ở bàng quang do khối u khi quá lớn đè lên thành bàng quang.

Có đến 50% các trường hợp bệnh được phát hiện qua chẩn đoán hình ảnh như siêu âm hoặc cắt lớp vi tính ổ bụng. Trong trường hợp viêm ruột thừa cấp tính, ngưỡng đường kính ngoài của ruột thừa là 6 mm kèm theo các dấu hiệu khác như thâm nhiễm mỡ xung quanh, lòng chứa dịch hoặc sỏi phân, còn nếu đường kính ngoài từ 15 mm trở lên cho thấy sự hiện diện của U nhày ruột thừa với độ nhạy 83% và độ đặc hiệu 92%. Cắt lớp vi tính được coi là phương pháp chẩn đoán chính xác nhất vì có thể được sử dụng để phát hiện các dấu hiệu đặc trưng của U nhày ruột thừa với độ chính xác cao: lòng ruột thừa hơn 1,3 cm, giãn dạng nang và vôi hóa thành, có thể có những vòng tăng tỷ trọng dày theo kiểu vỏ hành do các chất nhày quánh lại thành lớp như vỏ hành. Đặc biệt, cắt lớp vi tính còn cho phép phân biệt U nhày ruột thừa với các bệnh lý khác không phải viêm ruột thừa như viêm túi thừa manh tràng, viêm manh tràng, viêm bờm mỡ manh tràng.

Một trong những nguyên tắc cơ bản của điều trị phẫu thuật đối với bệnh này là cắt bỏ hoàn toàn ruột thừa và tổ chức nhày, tránh chất nhày tràn vào khoang phúc mạc dẫn đến u giả nhầy phúc mạc (pseudomyxoma) thì điều trị khá phức tạp và tỷ lệ tái phát cao.

Với trường hợp này, chúng tôi  đã chẩn đoán trước mổ bằng lâm sàng và các cận lâm sàng hiện có tại bệnh viện, không có chụp cắt lớp điện toán. Phẫu thuật bằng phương pháp nội soi vì điều kiện phẫu thuật cho phép, bệnh nhân phục hồi sớm sau mổ, dễ chăm sóc sau mổ, vết mổ nhỏ, thời gian điều trị được rút ngắn./.




Bệnh viện Đa khoa thành phố Ngã Bảy

  In bài viết



thông báo


SƠ đồ đường đi

Nobel Y Khoa 2016